Rank: Advanced Member
Groups: Registered
Joined: 3/22/2011(UTC) Posts: 3,308
Thanks: 326 times Was thanked: 364 time(s) in 256 post(s)
|
Tin Tong Hop
Cháy lớn ở nhà thờ chính tòa Nantes, nghi ngờ kẻ gian cố ý phóng hỏa
Đặng Tự Do 18/Jul/2020

Khoảng 7:30 sáng ngày thứ Bẩy 18 tháng 7, một vụ cháy lớn đã xảy ra tại nhà thờ chính tòa hai Thánh Phêrô và Phaolô Tông đồ của thành phố Nantes cách Paris 380km về phía Tây Nam.

Những ngọn lửa lớn có thể nhìn thấy từ bên ngoài tòa nhà. Hơn 100 lính cứu hỏa đã đến nơi vào lúc 7giờ 44 phút và đã vất vả chiến đấu với ngọn lửa. Cuối cùng, họ đã khống chế được trận hỏa hoạn sau vài giờ.
Trong cuộc họp báo vào chiều thứ Bẩy, Công tố viên Pierre Sennes cho biết lính cứu hỏa ghi nhận có đến 3 đám cháy bên trong ngôi nhà thờ. Do đó, họ tin rằng đây là một vụ cố ý phóng hỏa đốt nhà thờ, có thể xuất phát từ lòng thù hận đức tin.
Ngọn lửa đã phá hủy các cửa sổ kính màu và cây đàn đại phong cầm của ngôi nhà thờ có từ thế kỷ 15.
Biến cố này xảy ra chỉ 15 tháng sau vụ cháy kinh hoàng tại nhà thờ Đức Bà ở Paris.
Laurent Ferlay, chỉ huy trưởng lính cứu hỏa địa phương cho biết đám cháy ở Nantes đã được khống chế và “không phải là cảnh tượng như tại nhà thờ Đức Bà. Ngọn lửa không chạm đến mái nhà thờ ”
Laurent Ferlay cho biết thiệt hại tại nhà thờ chính tòa Nantes tập trung vào đàn đại phong cầm dường như đã bị phá hủy hoàn toàn. Dàn chống đỡ cây đàn không ổn định và có thể sụp đổ.
Trong một tuyên bố ngày 18 tháng 7, giáo phận Nantes cho biết cũng có những thiệt hại đáng kể đối với các cửa sổ hoa hồng có từ thế kỷ 16.
Giáo phận nhận định rằng ngọn lửa “đã nhấn chìm các Kitô hữu trong vùng Loire Atlantique trong một nỗi buồn lớn”.
“Đối với họ, nhà thờ này là một kiệt tác kiến trúc, và trên hết là nhà thờ mẹ của giáo phận. Đó là nơi tụ họp gặp gỡ nhau, nơi các sự kiện quan trọng trong lịch sử của giáo phận đã diễn ra.”
Trước diễn biến tệ hại này, Tổng thống Emmanuel Macron đã tweet rằng: “Sau Notre-Dame, Nhà thờ Hai Thánh Phêrô và Phaolô đang bốc cháy. Chúng ta hãy hỗ trợ các nhân viên cứu hỏa đang chịu mọi rủi ro để cứu viên ngọc gothic này.”
Ông Sennes cho biết cảnh sát quốc gia sẽ tham gia vào cuộc điều tra và một chuyên gia về hỏa hoạn đang được gởi đến Nantes
“Khi chúng tôi đến nơi xảy ra hỏa hoạn, chúng tôi thấy ba đám cháy riêng biệt đang xảy ra, lý lẽ thông thường cũng cho thấy là cần phải mở một cuộc điều tra”, ông nói.
Nhà báo Jean-Yves Burban cho biết anh nghe thấy một tiếng nổ lớn vào khoảng 07:30 giờ địa phương và thấy ngọn lửa khi anh đi ra ngoài để xem chuyện gì đang xảy ra.
“Tôi run lên vì tôi đã ở đây tám năm và tôi thấy ngôi nhà thờ này mỗi sáng và buổi tối khi đi làm về. Đó là ngôi nhà thờ thân yêu của chúng tôi và tôi đã rơi nước mắt”, ông nói với Reuters.
Đây không phải là vụ cháy đầu tiên tại nhà thờ. Ngôi nhà thờ đã bị hư hại do bị quân Đồng minh ném bom nhầm vào năm 1944, trong Thế chiến thứ hai, và sau đó vào năm 1972 mái nhà đã bị phá hủy phần lớn vì một trận hỏa hoạn.
Nhà thờ được xây dựng lại 13 năm sau đó với cấu trúc bê tông thay thế cho mái bằng gỗ.
Thách thức chủ trương tận thế
7/18/2020 3:39:10 PM
Suy tư về đường hướng mục vụ của Đức Thánh Cha Phanxicô
 Bức tường Bá Linh sụp đổ ngày 9 tháng 11 năm 1989. Từ đó trở đi người dân Bá Linh bắt đầu tháo dỡ biểu tượng đã giam giữ họ suốt 30 năm; đó là thời điểm tiêu biểu cho buổi hoàng hôn của chủ nghĩa toàn trị.
Ngày đó ghi dấu sự khởi đầu một thời đại mới đầy hứa hẹn mang tính toàn cầu. Thế nhưng ngày nay, như Đức Giáo hoàng Phanxicô vẫn nói với chúng ta, “thời đại mới” này lại được ghi dấu bằng sự vô cảm và xung đột.
Bức tường Bá Linh đã bị phá bỏ nhưng nhiều bức tường khác lại được dựng lên. Khi gặp gỡ một nhóm anh em Dòng Tên, Đức Giáo hoàng nói thẳng: “Có cả những bức tường ngăn cách con cái với cha mẹ. Tôi nghĩ đến Hêrôđê. Thế nhưng với ma túy, chẳng có bức tường nào ngăn cách cả”.
Khi Đức Phanxicô nói về Hội Thánh như “bệnh viện dã chiến”, ngài không có ý sử dụng một hình ảnh mang tính hấp dẫn và hiệu quả về tu từ. Điều hiện ra trước mắt ngài là “chiến tranh thế giới thu nhỏ”. Cuộc khủng hoảng trên thế giới ngày nay xuất hiện dưới nhiều hình thức và được diễn tả qua những xung đột, tranh chấp thương mại, những rào cản, những khủng hoảng về di dân, những chế độ sụp đổ, những liên minh thù nghịch, những con đường thương mại dẫn đến sự giàu có nhưng cũng dẫn đến nhiều căng thẳng.
Ngăn cản sự diệt vong: đế quốc hay Hội Thánh?
Đâu là tâm điểm trong lịch sử chúng ta đang sống? Cách đây ít năm Massimo Cacciari gợi ý một con đường trong tác phẩm của ông, La potere che frena. Tác giả suy tư về thần học chính trị trong ánh sáng của Thư 2 Thessalonica (2, 6-7). Tác giả viết về khuôn mặt bí ẩn của katechon, nghĩa là người hoặc cái gì đó “cầm giữ” và “nắm lấy”, chấm dứt hoặc thắng lại sự tấn công của tên Phản-Kitô. Cách nào đó, nhiệm vụ của “người cầm giữ” có thể sánh như công việc của Epimetheus, người anh của Prometheus: khi giấc mơ tiến bộ của Prometheus đã nhạt nhòa thì công việc của người anh là điều hành vận mệnh của loài người, ngăn cản những con tàu chứa đầy sự dữ trong thế giới.
Các Giáo phụ đã cố gắng xác định xem thánh Phaolô nói về ai và cái gì có thể ngăn lại sự chấm dứt của thế giới. Cách giải thích chiếm ưu thế là katechon (người cầm giữ) là đế quốc Rôma vì nó có quyền lực để giữ xã hội gắn kết với nhau. Nhưng nhiệm vụ này cũng đòi hỏi một quyền bính thiêng liêng. Với sự sụp đổ của đế quốc, Hội Thánh thừa hưởng vai trò này.
Ngày nay chúng ta sống trong chiều kích toàn cầu mà thời đế quốc Rôma chưa biết tới. Và câu hỏi của chúng ta là: đâu là nhiệm vụ của Hội Thánh trong bối cảnh phức tạp này? Xem ra chỉ có một trong hai chọn lựa: một là loan báo sự tận cùng gần kề của thế giới và đẩy nhanh tiến độ; hai là trở thành sức mạnh ngăn cản, chiến tuyến cuối cùng chống lại tai ương khủng khiếp mà chúng ta bị cuốn vào do những quyền lực đang điều hành hệ thống toàn cầu hoang dã, một hệ thống làm gia tăng những bất ổn trong quan hệ, gây chiến tranh, chỉ lo bảo vệ tiền bạc. Liệu có giải pháp thứ ba chăng? Đó là điều chúng ta nghiên cứu ở đây.
Nhiệm vụ của Hội Thánh khi đối diện với tận thế (sự hủy diệt nhân loại)
Phải chăng Hội Thánh là bệnh viện dã chiến theo nghĩa là Hội Thánh chữa lành những thương tích sau khi thua trận, hoặc theo nghĩa Hội Thánh tiếp sức cho những cánh tay rời rã để họ tiếp tục chiến đấu? Có những người hô hào đẩy nhanh cuộc chiến, lại có người muốn xây dựng ghetto, nơi dành riêng cho những kẻ “thanh khiết” để chống lại “đám đông quân gian ác”.
Còn Đức Phanxicô thì sao? Trong tư cách Giáo hoàng Rôma, phải chăng nhiệm vụ của ngài là cố gắng vươn tới một thế giới tốt đẹp hơn, một không tưởng? Hoặc phải chăng ngài nên tránh bằng mọi giá thảm kịch hủy diệt thế giới? Phải chăng trái đất này là trái banh đang bùng nổ nên phải đá nó đi để chỉ cho thấy trời mới đất mới? Hoặc phải chăng trái đất này là bình sành đã vỡ nát và phải thu lại từng mảnh vụn bằng bất cứ giá nào?
Đối với Đức Phanxicô, nhiệm vụ của Hội Thánh không phải là thích nghi với thế giới, chính trị hay xã hội, để nâng đỡ và giúp nó tồn tại; đây là điều ngài cho là “thói thế gian”. Ngài cũng không có ý chống lại thế giới, chính trị hay xã hội. Đức Giáo hoàng không khước từ thực tại nhân danh ngày tận thế theo nghĩa là thế giới này bị hủy diệt và sẽ không còn đau khổ nữa. Đức Phanxicô không đẩy cơn khủng hoảng của thế giới đến những hậu quả cực đoan bằng cách loan báo ngày tận thế gần kề, ngài cũng không thu gom những mảnh vụn của một thế giới suy sụp bằng cách tìm kiếm những liên minh hay sự cộng tác dễ chịu. Hơn thế nữa, ngài cũng không cố gắng loại trừ cái ác vì ngài biết rằng đó là điều không thể: cái ác âm thầm chuyển động và xuất hiện ở nơi khác thôi. Thay vào đó, ngài tìm cách trung hòa cái ác. Đó chính là nét căn bản trong biện chứng của Bergoglio, và cũng chính là điểm then chốt để chúng ta có thể hiểu được ngài.
Vai trò của Công giáo trong bối cảnh ngày nay
Từ quan điểm ngoại giao, đây là lý do Đức Phanxicô có những lập trường liều lĩnh. Sự cẩn trọng truyền thống về ngoại giao đi cùng với parrhesia (sự mạnh dạn), tức là nói rõ ràng và thẳng thắn, kể cả tố cáo: chống lại thứ chủ nghĩa tư bản chỉ lo tiền tệ; thường xuyên nhắc tới thảm kịch di dân mà ngài coi là “nút thắt chính trị toàn cầu”; ghi nhớ “nạn diệt chủng” ở Armenia; và chính thức hóa những quan hệ với Palestine.
Những lời tố cáo của ngài không ngừng vang lên – như “tiếng kêu trong sa mạc”, để mượn lời tiên tri Isaia trong Kinh Thánh. Và trong Thánh Lễ ở Santa Marta, vị “Giáo hoàng của lòng thương xót” không ngần ngại “nguyền rủa” những kẻ thúc đẩy chiến tranh và thu lợi từ đó.
Đức Phanxicô chất vấn vai trò mới của Công giáo trong bối cảnh ngày nay. Về vấn đề này ngài trình bày một tầm nhìn chủ yếu mang tính thiêng liêng và Phúc âm về quan hệ quốc tế. Kể cả khi nói về ngoại giao, như trong diễn văn ngày 3 tháng 5 năm 2018, ngài nhấn mạnh “một nền ngoại giao bàn quỳ”, nghĩa là ngoại giao cắm rễ sâu và đặt nền trên cầu nguyện.
Mọi sự đều dựa trên chọn lựa đã được mô tả từ đầu. Nếu Đức Phanxicô muốn ngăn cản sự sụp đổ, ngài chỉ có thể dựa trên luật lệ, những quyền lực hiện hành, sự trung gian giữa các dân tộc và Hội Thánh, những luật lệ cho phép hệ thống tồn tại, đến mức cộng tác với họ. Đàng khác, nếu ngài muốn đẩy nhanh việc tiến tới trời mới đất mới, có lẽ ngài không có chọn lựa nào khác hơn là phá vỡ những gì đang nâng đỡ quyền lực hiện hành và do đó, cấu hình lại thế giới.
Vì thế có sự xung khắc trong cách giải thích. Có những người tấn công Đức Phanxicô vì họ tố cáo ngài thỏa hiệp với thế gian. Thế nhưng thực tế là ngài tấn công cơ chế - cả ngoài đời lẫn trong đạo – kể cả liệt kê những thống khổ nó tạo ra. Những người ca tụng Đức Phanxicô cũng vậy, vì họ cảm thấy ngài nhạy bén trước thực tại của thế giới và thương xót nó kể cả như thể không đưa ra lời xét đoán. Thế nhưng thực tế là Đức Giáo hoàng nói rất mạnh, như ngài đã nói trong chuyến viếng thăm Napoli, rằng tham nhũng “bốc mùi” và trong lời tố cáo, ngài không chỉ chọn thái độ nửa vời.
Có một chuẩn mực thiêng liêng mà chúng ta đừng bao giờ quên. Chuẩn mực đó đã khiến Chúa Giêsu vừa đón tiếp người tội lỗi vừa xua đuổi những kẻ đổi tiền ra khỏi đền thờ. Chuẩn mực là chính Chúa Giêsu. Có những người khi nhìn vào hai cử chỉ trên, cho rằng Chúa mâu thuẫn - vì một đàng quá khắt khe và một đàng quá buông thả - bởi lẽ họ không hiểu Tin Mừng của Chúa Kitô.
Nói đến đường lối chính trị quốc tế của Đức Phanxicô là phải nói đến việc dìm mình trong tầm nhìn thiêng liêng, được nuôi dưỡng bằng cảm thức sâu xa về tai họa có thể xảy ra và về những sức mạnh của cái ác đang hoành hành trong thế giới. Đồng thời có sự tín thác đặc biệt vào mầu nhiệm Thiên Chúa, sự tín thác đó giúp chúng ta chấp nhận những bước nhỏ, những tiến trình, quyền bính thế gian, những cuộc nói chuyện, thương thảo, vai trò của thời gian, trung gian.
Cách tiếp cận này dựa trên nhận thức rằng thế giới không được phân chia giữa thiện và ác, giữa đúng và sai. Chọn lựa không có nghĩa là tính toán xem những sức mạnh nào (đảng phái, chính trị, quân sự) mình cần liên minh và nâng đỡ để sự thiện chiến thắng. Cách tiếp cận này trong đối thoại ngoại giao đặt nền trên sự chắc chắn rằng vương quốc của sự thiện không thuộc thế giới này. Chính vì thế phải đối thoại với tất cả các bên. Quyền lực trong thế giới này dứt khoát không mang tính thánh thiêng. Dĩ nhiên các chính trị gia được kêu gọi nên thánh bằng cách làm việc cho công ích, nhưng dù thế chăng nữa, không có quyền lực chính trị nào là “thánh thiêng” cả.
Theo nghĩa đó, Đức Phanxicô hoàn toàn dựa vào tương lai cánh chung và chỉ dựa vào đó mà thôi; ngài tín thác vào một mình Thiên Chúa. Chính điều đó đã thúc đẩy ngài làm tất cả những gì có thể để tập trung vào “sự hội nhập”, vào những gì dẫn đưa con người trên nẻo đường sự thiện, kể cả ngay giữa những cám dỗ của thế gian này, dẹp sang một bên ảo tưởng về “đế quốc thánh thiêng”. Theo lập luận đó, chẳng có ai là “hiện thân của cái ác” cả. Điều đó có thể gây scandal vì nó mở ngỏ cánh cửa (đôi khi rất hẹp nhưng vẫn là mở), kể cả trong những tình hình phức tạp về chính trị.
Chống lại cơn cám dỗ của Công giáo bộ tộc
Hiểu như thế, năng lực dẫn dắt Đức Phanxicô làm việc để kiềm chế thế giới khỏi rơi vào vực thẳm không nhất thiết dẫn ngài đến chỗ thỏa hiệp với các quyền lực hiện hành. Đây là điểm tế nhị nhất trong lập luận của ngài vì đôi khi Hội Thánh cho rằng con đường duy nhất để kiềm chế sự suy thoái là liên minh với một đảng phái chính trị chấp nhận cho Hội Thánh tồn tại như là người ban tặng ý nghĩa. Điều này thường xảy ra ở Italia. Và nỗi nhung nhớ quá khứ vẫn chưa hẳn đã hết. Nhưng Bergoglio không tin vào thứ quyền lực đó. Cái thánh thiêng không bao giờ là sự chống đỡ cho quyền lực. Và quyền lực cũng chẳng bao giờ là sự chống đỡ của cái thánh thiêng.
Những chủ đề thường được nhấn mạnh trong triều đại của Đức Phanxicô là sự bình đẳng, nhu cầu “đất đai, nhà cửa, công ăn việc làm”, cũng như những chủ đề liên hệ đến tự do. “Chủ nghĩa tương đối” được bày tỏ rõ nét trong nhiều khía cạnh xã hội. Lời kêu gọi chống lại sự chuyên chế của chủ nghĩa tương đối chạm đến tâm điểm của phẩm giá con người, và phẩm giá ấy thật mong manh nếu không có đất đai, nhà cửa, việc làm. Điều đó không có nghĩa là Đức Phanxicô mơ về một thiên đàng trần thế nhưng vì tầm nhìn của ngài là tầm nhìn đức tin, đặt nền trên Ngày Phán xét chung như Tám Mối Phúc trong Tin Mừng mô tả cho chúng ta.
Theo đó, một đại sứ ghi nhận rằng” ngôn ngữ của Đức Bênêđictô XVI là ngôn ngữ của phương Tây hiện đại, một đàng nhìn nhận tính đa nguyên về thế giới quan trong xã hội đương đại, đàng khác tố cáo sự chuyên chế của chủ nghĩa tương đối. Còn ngôn ngữ của Đức Phanxicô, nhìn vào nhiều thách đố của văn hóa hiện đại, đồng thời xem xét tiến trình phân cực xã hội và kinh tế đang gia tăng ở mức toàn cầu càng lúc càng mạnh”.
Đây là điểm thất bại trong việc đối nghịch trần thế với Kitô giáo vì nhìn như những phạm trù mang tính ý thức hệ và những quy chiếu trừu tượng. Không thể giam giữ Thần Khí như thế. Tư tưởng Kitô giáo tự nó chỉ đối nghịch với tư tưởng thế tục nếu cái thế tục bị biến thành hệ ý thức. Nhưng nếu chính tư tưởng Kitô giáo cũng trở thành một hệ ý thức thì nó cũng chẳng ăn nhập gì với Chúa Kitô cả.
Trong thực tế, như Đức Giáo hoàng nói ở Ai Cập, mọi sự đối nghịch khô cứng theo lớp bụi thời gian đều thất bại. Minh triết đích thực thì “mở ra và chuyển động, khiêm tốn và tìm tòi”. Chỉ có một sự đối nghịch duy nhất: hoặc là “văn minh của gặp gỡ” hoặc là “phản văn minh của xung đột”. Vậy tôn giáo là gì? “Ánh sáng đa sắc màu của các tôn giáo chiếu tỏa trên miền đất này”. Ánh sáng không làm cho các màu sắc đối chọi nhau nhưng tiếp nhận các màu sắc trong tầm nhìn hòa hợp, không đối kháng. Nói cho cùng, đây là vấn đề lớn ngày nay: chúng ta trải nghiệm tính đa dạng (được diễn tả) bằng những ngôn từ đối kháng.
Trong diễn văn dịp mừng ấn bản thứ 4.000 của tạp chí La Civiltà Cattolica, Đức Phanxicô nói: “Hãy làm cho người ta hiểu ý nghĩa của văn minh Công giáo, nhưng cũng phải làm cho người Công giáo hiểu rằng Thiên Chúa hoạt động ở cả bên ngoài biên cương của Hội Thánh, nơi những nền văn minh đích thực, bằng hơi thở của Thần Khí”. Và cũng trong diễn văn đó, ngài nói: “văn hóa sống là văn hóa hướng tới chỗ mở ra, hội nhập, nhân rộng, chia sẻ, đối thoại, cho đi và đón nhận trong một dân cũng như với các dân khác mà văn hóa đó tiếp xúc”.
Với Bergoglio, văn hóa có giá trị hơn nếu hiểu như một động từ hơn là một danh từ. Chỉ có động từ mới diễn tả tốt điều đó. Cụ thể là mở ra, hội nhập, nhân rộng, chia sẻ, đối thoại, cho đi và đón nhận. Bảy động từ diễn tả cả quá khứ, hiện tại, tương lai. Bảy động từ có thể chỉ ra hoặc mời gọi hoặc diễn tả mệnh lệnh thúc đẩy hành động. Động từ đầu tiên là mở ra.
Ý tưởng về chủ nghĩa dân túy Công giáo – hoặc tệ hơn nữa, chủ trương bản địa Công giáo – là những điều xa lạ với Đức Giáo hoàng, vì Thiên Chúa mà ngài tìm kiếm là Đấng hiện diện khắp nơi. Ý tưởng về “chủ trương bộ tộc” tức là muốn coi sách Tin Mừng và cả biểu tượng Thánh giá là của riêng mình - ý tưởng đó đã lùi xa rồi. Những ý niệm về cội rễ và căn tính không có cùng một nội dung đối với người Công giáo và thứ căn tính tân - ngoại giáo. Vênh váo, ngạo mạn, thù hằn là những gì đi ngược lại với Kitô giáo.
Thế chiến thứ ba không phải là một định mệnh đã được định sẵn. Để tránh thế chiến, cần đến lòng thương xót, và điều đó có nghĩa là phải bỏ đi những chủ trương bảo thủ cực đoan và thích loan báo tận thế, được khoác bên ngoài bằng những trang phục uy nghiêm và mặt nạ tôn giáo. Đức Phanxicô thách thức suy tư của những mạng lưới chính trị thúc đẩy cái gọi là cuộc chiến cuối cùng và không thể tránh khỏi về mặt địa chính trị. Cộng đoàn đức tin không bao giờ là cộng đoàn chiến tranh.
Cần phải thoát khỏi cơn cám dỗ thần thánh hóa một quyền lực chính trị để sử dụng nó cho mục đích riêng của mình. Do đó không thể chấp nhận thứ chủ thuyết thiên niên kỷ cho rằng đây là giai đoạn chuẩn bị tận thế và sẽ có “cuộc chiến cuối cùng”. Nhấn mạnh đến lòng thương xót như thuộc tính nền tảng nơi Thiên Chúa diễn tả nhu cầu hết sức căn để này.
Chính vì thế Đức Phanxicô không chấp nhận những suy tư thần học - chính trị cổ võ cho quân khủng bố, để tránh việc đồng hóa Hồi Giáo (chân chính) với chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo. Ngài cũng không chấp nhận những suy tư thần học – chính trị hô hào “thánh chiến” hoặc dựng hàng rào kẽm gai viện lý do để ngăn cản tận thế và bảo vệ “trật tự”. Kẽm gai duy nhất đối với Kitô hữu là mão gai trên đầu Chúa Kitô!
Thánh Phanxicô trên tòa Phêrô
Bằng một cách thế mang đầy chất Phúc Âm, khi nói về những kẻ khủng bố, Đức Phanxicô đã dùng một cụm từ vừa bao hàm lời kết án vừa hàm chứa lòng thương cảm. Ngài gọi họ là “những phạm nhân đáng thương”. Ngài đã dùng cụm từ này khi gặp gỡ những người tị nạn và người trẻ khuyết tật tại Nhà thờ Công giáo La tinh ở Betania ngày 24 tháng 5 năm 2014. Như một dấu ấn, ngài nhìn thấy nơi tội nhân - trong trường hợp này là những kẻ khủng bố - hình ảnh “đứa con hoang đàng” chứ không phải là hiện thân của ma quỷ. Không phải là sai khi khẳng định rằng ngăn chặn kẻ tấn công bất lương là quyền con người, nhưng cũng phải nhìn nhận “quyền của kẻ tấn công”, đó là “quyền được ngăn chặn khỏi việc làm điều ác”. Bằng cách đó, chúng ta nhìn thực tại trong viễn tượng hai mặt, vừa hàm chứa vừa không loại trừ kẻ thù và điều thiện hảo cho họ.
Tình yêu đặc thù nơi các Kitô hữu không chỉ là yêu thương “người thân cận” nhưng là yêu thương “kẻ thù”. Khi chúng ta nhìn vào một người phạm tội ác kinh khủng bằng pietas (thương xót), thì điều vượt trội là sức mạnh thâm sâu của Tin Mừng Chúa Kitô, tức là tình yêu thương kẻ thù. Đây là điều không thể giải thích trên bình diện tự nhiên, có khi bị cho là scandal! Thế nhưng đó chính là chiến thắng của lòng thương xót.
Không có lòng thương xót ấy, Tin Mừng có nguy cơ trở thành một diễn từ mang tính xây dựng nhưng chắc chắn không phải là diễn từ mang tính cách mạng. Chọn lựa của Đức Phanxicô là chọn lựa của Chúa Kitô khi đứng trước vị đại pháp quan trong tác phẩm Anh em nhà Karamazov của Dostoievski: hôn lên môi người công bố án tử cho ngài; nụ hôn chẳng làm thay đổi được tâm trí hắn, nhưng làm cho đôi môi ông ta rung lên và “đốt cháy con tim”.
Đức Giáo hoàng cương quyết chống lại khuynh hướng coi Công giáo như một bảo đảm chính trị, “đế quốc cuối cùng”, kế thừa những vết tích vinh quang, trụ cột chống đỡ sự suy thoái khi đối diện với việc khủng hoảng lãnh đạo tại phương Tây. Nói cách đơn giản, ngài đang lôi Kitô giáo khỏi cơn cám dỗ muốn làm người kế thừa đế quốc Rôma, một di sản lẫn lộn quyền lực chính trị với quyền bính thiêng liêng đã nhắc đến trước đây. Ngài lôi quyền bính thiêng liêng khỏi bộ áo trần thế đã cũ kỹ và gỉ sét. Áo dòng trắng ngài mặc – không có huy hiệu Giáo hoàng – mang Kitô giáo trở lại với Chúa Kitô. Ngài không mặc áo đỏ, vốn là màu của hoàng triều theo truyền thống và là cách thể hiện imitatio imperii (bắt chước hoàng đế) của Giám mục Rôma.
Chúng ta đừng tự lừa dối mình: sự đan xen giữa sacerdotium (chức linh mục) và imperium (hoàng đế) không phải dễ được làm sáng tỏ. Chúng ta cũng chẳng biết tiến trình đó rồi sẽ đi đến đâu. Cần phải làm sáng tỏ những điều kiện và khả thể của tiến trình này. Điều chắc chắn là Đức Giáo hoàng không còn đội triều thiên cho bất cứ ông vua nào để coi ông ta như defensor fidei (người bảo vệ đức tin). Vâng, Đức Giáo hoàng là vị lãnh đạo tôn giáo được thế giới nhìn nhận, nhưng ngài là vị lãnh đạo bằng quyền lực mềm, có thể đề nghị một tầm nhìn về thế giới tương lai.
Theo nghĩa đó Thánh Phêrô là Thánh Phanxicô. Đối với một vài người, đây là một nghịch lý, scandal, tảng đá gây vấp ngã khi họ nhìn vào triều đại giáo hoàng của Đức Phanxicô. Hào quang của Thánh Phanxicô, một vị thánh nghèo, lại hòa với hào quang của Đấng kế vị Thánh Phêrô, và dung mạo của hoàng đế Rôma mãi mãi bị bỏ rơi. Thế nhưng nhờ đó mà khỏi trở thành Don Quixote de la Mancha, chiến đấu chống lại cối xay gió trong thời đại chúng ta.
Có lẽ phải nhắc đến Dante trong tác phẩm De Monarchia, ông nối kết auctoritas (quyền bính) thiêng liêng với paternitas (tình phụ tử). Massimo Cacciari nhận xét thế này: “Người nắm quyền bính cao nhất trong Hội Thánh lại là người khiêm tốn, nghèo khó, sống sát Phúc Âm. Điều đó có nghĩa là trước mắt thế gian, Hội Thánh thật yếu đuối, trần trụi, chịu đóng đinh. Tắt một lời: Thánh Phanxicô là ơn cứu độ của Hội Thánh, và chỉ bằng cách nêu cao thập giá của thánh Phanxicô, Hội Thánh mới có thể giữ tình phụ tử đối với quyền bính chính trị.”
Hội Thánh phải công khai tuyên bố Hội Thánh không phải là Thành trì của Thiên Chúa, và khước từ mọi thỏa hiệp với bất cứ quyền lực chính trị nào, chỉ khi đó Hội Thánh mới có thể được lắng nghe và nhìn nhận trong thế giới. Theo nghĩa đó, Paul Elie đã đúng trong bài viết đăng trên New York Times, Francis, the Anti-Strongman. Ông viết: “Bây giờ là thời của kẻ mạnh: Tập Cận Bình ở Trung Quốc, Vladimir Putin ở Nga, Viktor Orban ở Hungary và Donald Trump ở Hoa Kỳ, tất cả đều coi thường báo chí độc lập và những sức mạnh khác dám chống lại nhà lãnh đạo tự mãn. Trong khung cảnh đó, Giáo hoàng Phanxicô xuất hiện như người chống lại kẻ mạnh. Danh hiệu giáo hoàng của ngài gọi về Thánh Phanxicô Assisi, vị thánh bảo trợ cho người nghèo”. Tông huấn Gaudete et Exultate, được ban hành sau đúng 5 năm Giáo hoàng của Đức Phanxicô, tập trung vào sự thánh thiện, và ngài coi như tâm điểm trong cuộc “cải tổ” của ngài, chứ không chỉ là những chọn lựa nhân sự trong Curia.
Đức Phanxicô muốn trả lại cho Thiên Chúa quyền năng đích thực của Người là quyền năng hội nhập. Hội nhập có nghĩa là “đem những khác biệt về thời đại, dân tộc, phong cách, tầm nhìn, vào trong tiến trình kiến tạo”. Đức Giáo hoàng nói rõ điều đó ở Hàn Quốc khi gặp gỡ các giám mục Á châu: căn tính không chỉ được hình thành bằng những gì chúng ta bảo tồn, cũng không chỉ là quá khứ mà chúng ta cố gắng gìn giữ. Với Đức Giáo hoàng, thời gian của căn tính không chỉ là quá khứ nhưng còn là tương lai. Căn tính không chỉ bày tỏ cái chúng ta là, nhưng trên hết mọi sự là qua những gì chúng ta hi vọng. Căn tính được xác định không phải qua việc bạn là ai nhưng là bạn hy vọng điều gì.
Điều này dẫn chúng ta đến tầm nhìn về Hội Thánh dựa trên hy vọng và tương lai cánh chung, là tương lai vượt trên trần thế này. Đức Phanxicô nhắc nhở các giám mục Hoa Kỳ: chúng ta phải cẩn trọng để đừng rơi vào cơn cám dỗ “đánh đổi quyền lực bằng sức mạnh thay vì sức mạnh của sự bất lực (thập giá) qua đó Thiên Chúa cứu độ chúng ta”. Đừng bao giờ biến Thánh giá thành ngọn cờ cho những đấu tranh trần thế.
Bergoglio muốn giải thoát các mục tử khỏi suy nghĩ rằng mình phải lâm chiến để bảo vệ một trật tự, nếu không, Công giáo và cả thế giới sẽ lụi tàn. Kể cả sự bảo vệ cái gọi là “phương Tây Kitô giáo” trong thực tế cũng là sự bại hoại (vì bị biến thành công cụ) của luân lý Kitô. Trong một vài trường hợp người ta còn có thể đi xa đến mức biện minh cho những quyền lợi kinh tế và địa chính trị bằng cách khoác cho nó bộ áo bảo vệ các Kitô hữu bị bách hại.
Ưu thế của quyền bính thiêng liêng và sự chấm dứt của “Kitô giới”
Như thế, Đức Phanxicô bày tỏ xác tín của ngài, xác tín được hình thành một phần qua việc đọc Erich Prywara, một nhà thần học Dòng Tên: chúng ta đang ở thời điểm kết thúc kỷ nguyên Constantinô và sự thực hiện của Charlemagne. Kitô giáo hiểu như bắt đầu từ Constantinô với mối liên kết hữu cơ giữa văn hóa, chính trị, cơ chế và Hội Thánh, Kitô giáo đó đang ở thời kết thúc. Prywara xác tín rằng – Đức Giáo hoàng trích dẫn nhiều lần – châu Âu được sinh ra và lớn lên trong tương quan với, đồng thời chống lại Sacrum Imperium (đế quốc thánh thiêng), vốn bắt rễ từ nỗ lực của Charlemagne muốn tổ chức phương Tây như một quốc gia toàn trị.
Tuy nhiên sự chấm dứt của Kitô giáo không có nghĩa là phương Tây tàn lụi nhưng nó mang trong mình một nguồn lực thần học có tính quyết định vì sứ mệnh của Charlemagne đã chấm dứt. Chính Chúa Kitô thực hiện công trình hoán cải này. Bức tường đã sụp đổ, bức tường mà mãi cho đến nay đã ngăn cản Tin Mừng không vươn tới được những tầng ý thức sâu xa nhất, và không thấm vào được tâm điểm các linh hồn.
Sự chấm dứt kỷ nguyên Constantinô là “khả thể cho Hội Thánh tiếp tục bước đi trên những nẻo đường Phúc Âm đã được khởi xướng bởi Phanxicô Assisi, Inhaxiô Loyola và Têrêxa Lisieux, bẻ gãy hàng rào ngăn cản Phúc Âm với người nghèo, những người mà đối với họ xem ra Kitô giáo luôn xuất hiện như hệ ý thức chính trị và bảo đảm cho sự chiến thắng của giai cấp thống trị. Tầm nhìn này dẫn Đức Giáo hoàng đến chỗ yêu mến các Hội Thánh nhỏ bé, những Hội Thánh với tỉ lệ Công giáo rất thấp so với dân số chung trong quốc gia. Thế nhưng những Hội Thánh đó là hạt giống cho Hội Thánh hoàn vũ. Vì thế địa lý của Tòa Thánh – bao gồm địa lý của Hồng y đoàn và các chuyến tông du – là địa lý mang tính mục vụ.
Do đó có sự khác biệt rõ ràng giữa khung thần học-chính trị theo di sản Constantinô, muốn thiết lập Vương quốc thần linh ở đây và bây giờ, với khung thần học-chính trị của Đức Phanxicô vốn mang tính cánh chung, nghĩa là nhìn tới tương lai và tìm cách điều hướng lịch sử tới Vương quốc Thiên Chúa, vương quốc công chính và hòa bình. Trong khung của Constantinô, thần linh rõ ràng là phóng thể lý tưởng của quyền lực hiện hành. Tầm nhìn đó làm phát sinh hệ ý thức chinh phục. Ngược lại, tầm nhìn của Đức Phanxicô làm phát sinh tiến trình hội nhập.
Điều đó lại càng đúng hơn cho ngày nay khi mà – trong một thế giới mới “vô trật tự” rất khó đoán định – Công giáo có thể thu hút sự quan tâm về những vấn đề được cả thế giới quan tâm như môi trường, di dân và tị nạn, tôn trọng phẩm giá con người. Ở đây không hề là vấn đề cô lập Đức Phanxicô bằng thứ nhãn hiệu dễ dãi và hời hợt gán cho ngài là “Giáo hoàng của Nam bán cầu”, của thế giới đang phát triển, như thể để chống lại phương Tây tục hóa. Nhưng ngược lại, vấn đề ở đây là hiểu ra rằng chính việc toàn cầu hóa của Hội Thánh đã làm thay đổi những vấn đề mà ở đó Công giáo có thể tạo dấu ấn.
Ngày 9 tháng 5 năm 2016, trong một cuộc phỏng vấn của nhật báo La Croix, Đức Giáo hoàng nói về châu Âu như sau: “Vâng, châu Âu có những cội rễ Kitô giáo. Kitô giáo có bổn phận tưới tắm những cội rễ đó, nhưng với tinh thần phục vụ như rửa chân. Bổn phận của Kitô giáo với châu Âu là phục vụ”. Ngài nói thêm: “Sự đóng góp của Kitô giáo cho văn hóa là sự đóng góp của Chúa Kitô bằng việc rửa chân, nghĩa là phục vụ và hiến ban mạng sống”.
Và đây là sứ điệp mạnh mẽ Đức Phanxicô gửi đến Hội Thánh Italia ở Florence năm 2015, trong bài diễn văn dài cần được giữ gìn và chia sẻ chứ không phải để lưu trữ trong kho: “Chúng ta sẽ không thấy được sự sung mãn của Thiên Chúa nếu không chấp nhận rằng Người đã hủy mình ra không. Và do đó chúng ta sẽ chẳng hiểu gì hết về nhân bản Kitô và lời lẽ của chúng ta sẽ là những lời đẹp đẽ, văn hóa cao, được chắt lọc, nhưng không phải là những lời của đức tin, những lời làm vang lên mầu nhiệm hủy mình ra không”.
Ưu phẩm của quyền bính thiêng liêng là ưu phẩm của lòng thương xót. Một lần nữa Đức Phanxicô ngỏ lời với các giám mục Italia: “Trước những sự ác và những vấn đề của Hội Thánh, thật là vô ích nếu đi tìm giải pháp nơi chủ nghĩa bảo thủ và cực đoan, bằng cách tái lập những thực hành lỗi thời và những hình thức không còn ý nghĩa. Giáo thuyết Kitô không phải là một hệ thống khép kín, không thể nêu lên các câu hỏi, nghi vấn, tìm kiếm; nhưng là giáo thuyết sống động, có thể khuấy động. Giáo thuyết ấy mang một khuôn mặt sống, một thân thể chuyển động và phát triển, giáo thuyết ấy được gọi là Đức Giêsu Kitô”.
Quyền năng của Chúa Kitô chịu đóng đinh – và do đó quyền năng của thập giá, là quyền năng duy nhất có thể cứu độ thế giới.
Bergoglio biết rằng “dân tuyển chọn” cũng trở thành “phe phái” khi bước vào mạng lưới phức tạp của những chiều kích tôn giáo, cơ chế, chính trị, khiến họ mất đi cảm thức về sự phục vụ phổ quát và chống đối những người ở xa, những người không thuộc phe của họ, những người bị coi là “thù nghịch”. Thuộc về một phe đương nhiên tạo nên kẻ thù, chúng ta phải tránh cơn cám dỗ này. Không có công thức chính trị nào trực tiếp phát xuất từ Phúc Âm cả. Đàng khác, Phúc Âm phân định và xét xử thế gian và những tiêu chuẩn của nó. Hai ví dụ: các nạn nhân, kể cả trẻ em, phải chạy trốn đến nỗi mất mạng trên biển Địa trung hải, bị biến thành phương thế để gây sức ép phải thay đổi các hiệp ước quốc tế; cũng như ở biên giới Hoa kỳ- Mexicô, không thể chấp nhận việc tách ly trẻ thơ khỏi cha mẹ chúng, dù được biện minh là phương thế răn đe việc di dân bất hợp pháp.
Tình huynh đệ nhân loại
Trong phần cuối của những suy tư này, chúng ta trở lại với câu hỏi đã đặt ra từ đầu. Phải chăng Đức Phanxicô loan báo và đẩy nhanh kết thúc (thế giới cũ), và hứa hẹn không tưởng về một thế giới tương lai; hay phải chăng ngài đang thu góp những mảnh vụn của một thế giới đang vỡ vụn? Hiển nhiên con đường của ngài không tương ứng với giả thuyết nào. Có một nẻo đường thứ ba.
Đức Phanxicô trình bày Hội Thánh như dấu chỉ chống đối trong một thế giới đã quá quen với thói vô cảm. Ngài phản ứng trước hết và trên hết bằng cách xin cầu nguyện cho thế giới và cho chính ngài. Rồi ngài phản ứng bằng cách đưa ra những hành động mang tính sư phạm đối với những người con cái Thiên Chúa mà chưa biết mình là con cái, do đó cũng không nhìn nhau như anh em. Ngài biết rằng sứ vụ của Hội Thánh thuộc lãnh vực giáo dục và vì thế, cần kiên nhẫn và biết đợi chờ.
Ví dụ rõ nét cho hành động này là cùng với Ahmed el-Tayeb, Đại Imam al-Ahzar, ký kết “Tài liệu về Tình huynh đệ nhân loại để phục vụ hòa bình thế giới và việc sống chung”, sự kiện diễn ra tại Abu Dhabi ngày 4 tháng 2 năm 2019. Chúng tôi cho rằng tầm vóc của sự kiện và tài liệu này chưa được hiểu cho thấu đáo. Trong Tài liệu đó, xuất hiện ước muốn ngăn cản những lập trường chủ trương “thánh chiến” để đẩy nhanh tận thế, đồng thời cũng không chỉ giới hạn liệu pháp chữa trị ở việc băng bó vá víu để trì hoãn kết cục không thể tránh. Tài liệu này – không chỉ được ký chung nhưng còn được Đức Giáo hoàng và Imam viết chung – không phải là tù nhân của sự vỡ mộng, cũng không phải là tài liệu đi tìm cái không tưởng.
Tài liệu trên trình bày thực tại thế giới là “một bối cảnh toàn cầu bị che phủ bởi sự bất định, vỡ mộng, sợ hãi tương lai, và được điều hành bởi những lợi ích kinh tế ngắn hạn”. Hai nhà lãnh đạo lên tiếng “nhân danh Thiên Chúa” nhưng các ngài không trực tiếp đưa ra những tiền đề thần học đối xứng. Thay vào đó, các ngài khởi đi từ kinh nghiệm gặp gỡ và từ thực tế là phát xuất từ niềm tin vào Thiên Chúa, các ngài đã chia sẻ với nhau nhiều lần về “những niềm vui, nỗi buồn và những vấn đề của thế giới hiện nay”. Và đây là điều đúc kết: “Đức tin dẫn tín hữu đến chỗ nhìn thấy nơi người khác một người anh em, chị em cần được yêu thương và nâng đỡ. Qua niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng tạo thành vũ trụ, các thụ tạo và loài người (bình đẳng trên nền tảng của lòng thương xót), các tín hữu được kêu gọi diễn tả tình huynh đệ nhân loại bằng cách gìn giữ tạo thành và toàn thể vũ trụ và nâng đỡ tất cả mọi người, đặc biệt là những người nghèo nhất và cần được giúp đỡ nhất”.
Tài liệu can đảm đối diện với thách đố của “căn bệnh tôn giáo”, tức là biến sự thánh thiện thành công cụ phục vụ cho hoạt động chính trị như là chính nghĩa thánh thiêng. Dưới hình thức cực đoan và bạo lực nhất, căn bệnh này thúc đẩy các tín đồ đến chỗ “tạo dựng” thế giới mới bằng bạo lực. Bằng cách đó, Tài liệu phi bác tầm nhìn tận thế làm phát sinh khủng bố như khí cụ thực hiện thánh ý Thiên Chúa, được hiểu như sự hủy diệt (thế giới). Thật vậy, đây là điểm cốt lõi của chủ nghĩa khủng bố nhân danh tôn giáo. Cùng nhau, Đức Phanxicô và el-Tayeb cho thấy luận điệu tệ hại của tầm nhìn này và cương quyết lôi tôn giáo ra khỏi đó.
Sự nhìn nhận tình huynh đệ này được đặt nền trên tính siêu việt và niềm tin vào Thiên Chúa (do đó mang ý nghĩa theo chiều dọc chứ không chỉ là chiều ngang). Đối với hai nhà lãnh đạo đã ký kết, con người không tự cứu chính mình, như nền đạo đức thế tục chủ trương. Tình huynh đệ không chỉ thuần túy là tình cảm hay xúc cảm, cũng không chỉ là mệnh lệnh “Hãy yêu thương nhau”, cho dù quan trọng. Nhưng đó là sứ điệp mạnh mẽ, mang cả giá trị chính trị. Từ đó, không phải ngẫu nhiên khi Tài liệu trình bày suy tư về “quyền công dân”: tất cả chúng ta là anh chị em, do đó mọi công dân đều có quyền và bổn phận như nhau, mọi người đều được đối xử công bằng. Việc nói về “quyền công dân” như thế sẽ đẩy xa bóng ma ngày tận thế và những giải pháp chính trị được đưa ra để tránh điều tệ hại nhất. Ý tưởng về “nhóm thiểu số” sẽ không còn, ý tưởng vốn hàm chứa bên trong mầm mống của chủ nghĩa bộ tộc và sự thù nghịch, chỉ nhìn thấy trên gương mặt người khác mặt nạ của kẻ thù.
Do đó sứ điệp này mang tầm vóc toàn cầu: trong thời đại được ghi dấu bằng những bức tường, thù hận và sợ hãi, sứ điệp này lật đổ lô-gích thế tục chủ trương xung đột là cần thiết. Đức Giáo hoàng diễn tả điều này cách rõ ràng trong Sứ điệp ngày Hòa bình thế giới 2020: “Sợ hãi thường là nguồn của xung đột”; “bất tín và sợ hãi làm gia tăng tính mong manh của những quan hệ và nguy cơ bạo lực”. Chúng ta phải bẻ gãy “thứ lô-gích chết người đó”. Cách tiếp cận của Đức Phanxicô làm đảo lộn những thứ thần học chính trị (tập trung vào tận thế) đang trải rộng cả trong Hồi giáo lẫn Kitô giáo. Chưa phải là hết. Không hẳn là tình cờ khi Đức Phanxicô trích dẫn Tài liệu Abu Dhabi 4 lần trong chuyến thăm Thái Lan và Nhật Bản. Ngài cũng trao Sứ điệp đó cho Hòa thượng Phật giáo ở Bangkok, trích dẫn ở Hiroshima, nơi bom nguyên tử đã hủy diệt biết bao người. Và đã có những âm vang đón nhận, hài hòa với Tài liệu từ phía Phật giáo, Ấn giáo và Sikh.
***
Chúng tôi mở đầu bài viết bằng hình ảnh bức tường Bá Linh và kết thúc bằng hình ảnh bom nguyên tử ở Hiroshima. Hướng đi phải có để tránh thảm họa tận thế đã được khai triển. Nền tảng của mọi sự nằm trong một câu của Tài liệu Abu Dhabi: “Đức tin dẫn các tín hữu đến chỗ nhìn thấy nơi người khác một người anh em, chị em cần được nâng đỡ và yêu thương”. Tình huynh đệ là thách thức đích thực cho chủ trương tận thế.
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, số 117 (tháng 3 & 4 năm 2020)
Cf.G. Salvini, “Raising the walls among the people” in Civ. Catt. En. April 2018.
Francis, “Our little path: Pope Francis meets the Jesuits in Thailand and Japan”; http://www.laciviltacattolica.com
Lần đầu tiên Đức Phanxicô dùng cụm từ “bệnh viện dã chiến” để nói về Hội Thánh là trong cuộc phỏng vấn tôi thực hiện vào đầu triều Giáo hoàng của ngài: A. Spadaro, “Intervista a Papa Francesco” in Civ.Catt. 2013 III 449-477.
Cf. Cacciari, Il potere che frena. Saggio de teologia politica. Milan, Adelphi, 2013.
Đây là luận đề của các tác giả như Rod Dreher mà chúng tôi bàn đến trong A. Lind, “The Benedict Option: What is the role for Christians in society today?” in Civ. Catt. En. 2018.
Diễn văn của Đức Phanxicô cho cộng đoàn laciviltacattolica.
Cf. Francis, op.cit.
P.Ferrara, Il mondo di Francesco. Bergoglio e la politica internazionale, Cinisello Balsamo, San Paolo, 2016, 21.
Cf. Francis, Diễn văn trước các tham dự viên Hội nghị quốc tế về hòa bình, Cairo, April 28, 2017.
Cf. Francis, Diễn văn cho cộng đoàn laciviltacattolica, op.cit.
Ibid.
Cf. M.Cacciari, Il potere che frena, op. cit.
P. Elie, “Francis, the Anti-Strongman”, The New York Times, March 24,2018
Cf. Francis, Diễn văn cho các giám mục Á châu, August 17,2014.
Cf. G.Zamagni, “Tra Costantino e Hitler. L’Europa di Friedrich Heer”, Fine dell’era costantiniana. Retrospettiva genealogica di un concerto critico, Bologna, il Mulimo 2012, 55-57.
E. Prywara, L’idea d’Europa. La crisi di ogni politica cristiana, Trapani, II Pozzo di Giabbcobe, 2013, 55.
G.Goubert – S.Maillard, “L’’Entretien exclusif avec le Pape François, La Croix, May 17,2016.
Cf. Francis, Diễn văn gặp các đại diện Đại hội toàn quốc lần V của Giáo Hội Italia.
Cf. E. Prywara, L’Idea d’Europa, op.cit. 3
Antonio Spadaro, S.J. laciviltacattolica.com
Chuyển ngữ: Minh Khôi (hdgmvietnam.com 18.07.2020)
Tuyên bố của Đức Hồng Y Timothy Dolan về trò vu cáo và phỉ báng Giáo Hội Công Giáo của thông tấn xã AP.
J.B. Đặng Minh An dịch 16/Jul/2020
Chuyện gì đã xảy ra?
Trong cố gắng vực dậy nền kinh tế của Hoa Kỳ, chính quyền của Tổng thống Trump đã có sáng kiến đưa ra Paycheck Protection Program, tức là Chương trình Bảo Vệ Tiền Lương, để giúp cho các chủ nhân có tiền trả lương cho nhân viên trong hoàn cảnh phải đóng cửa hay phải hạn chế các hoạt động vì đại dịch coronavirus kinh hoàng.
Chương trình này cho vay số tiền tổng cộng lên đến 669 tỷ đô la, với lãi suất thấp, và có thể được tha nợ nếu số tiền này chủ yếu được dùng để trang trải chi phí tiền lương và giữ việc làm cho những người có nguy cơ mất việc. Một trong những điều kiện để vay tiền là tối thiểu 60% số tiền được vay phải dùng để trả lương cho nhân viên.
Giáo Hội Công Giáo là định chế cung cấp dịch vụ xã hội phi chính phủ lớn nhất tại Hoa Kỳ. Giáo Hội tuyển dụng hàng triệu nhân viên trong các giáo xứ, trường học, bệnh viện, các cơ quan bác ái và hàng loạt các cơ sở khác để phục vụ hàng chục triệu người có nhu cầu, bất kể chủng tộc, sắc tộc hay tôn giáo. Đại dịch coronavirus kinh hoàng làm tăng nhu cầu của những người được Giáo Hội phục vụ. Các khoản vay mà Giáo Hội đã nộp đơn xin là điều thiết yếu để Giáo Hội có thể tiếp tục hoạt động trong thời gian khủng hoảng của quốc gia.
Tất cả các khoản xin vay của Giáo Hội Công Giáo tại Hoa Kỳ trong Chương trình Bảo Vệ Tiền Lương chỉ lên đến 0.5% trong số tiền 669 tỷ đô la của chính phủ Hoa Kỳ.
Trong mưu toan “một ná hai chim”, vừa chống lại Giáo Hội Công Giáo vừa chống lại nỗ lực tái tranh cử của Tổng thống Trump, ngày 10 tháng 7 vừa qua, thông tấn xã AP đã cáo gian Tổng thống Trump đang tìm cách nịnh bợ Giáo Hội Công Giáo để kiếm phiếu bằng cách ưu đãi Giáo Hội trong Chương trình Bảo Vệ Tiền Lương, và các Giám Mục lợi dụng tình hình này để bòn tiền chính phủ. Trong bài báo này hai ký giả của AP là Reese Dunklin và Michael Rezendes còn táo tợn đi xa đến mức vu cáo các Giám Mục Hoa Kỳ dùng số tiền được cho vay đó để dàn xếp các tai tiếng lạm dụng tính dục của hàng giáo sĩ.
Tuyên bố của Đức Hồng Y Timothy Dolan
Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Kính gửi gia đình Tổng Giáo Phận New York,
Xin cho phép tôi được khuấy động một mùa hè mà tôi hy vọng là anh chị em được thư giãn với một chủ đề không dễ chịu chút nào.
Tuần trước, Associated Press, gọi tắt là AP, đã xuất bản một bài báo xảo quyệt, đầy những ẩn ý, về các giáo phận Công Giáo, các giáo xứ, trường học, các tổ chức bác ái và các tổ chức khác nhận được hỗ trợ từ chính phủ liên bang để trả lương cho nhân viên của họ trong cuộc khủng hoảng Covid-19. Nhiều cơ quan thông tin đã đăng tải lại câu chuyện này, trong đó ngụ ý rằng có một cái gì đó không ổn trong các tổ chức Công Giáo nhận được tiền từ Chương trình Bảo Vệ Tiền Lương. Nhiều anh chị em đã gọi điện hoặc gửi email cho tôi, muốn biết câu chuyện có đúng không. Câu trả lời của tôi, rất đơn giản: đó là câu chuyện hoàn toàn thất thiệt! Nhẹ nhàng nhất thì phải nói rằng đó là câu chuyện gây ngộ nhận, nặng hơn thì phải nói đó là một trò vu cáo trắng trợn. Đây là lý do tại sao.
Đầu tiên, Chương trình Bảo Vệ Tiền Lương, gọi tắt là PPP, được thiết kế để giúp các chủ nhân tiếp tục trả lương cho nhân viên của mình khi nền kinh tế rơi vào tình trạng bị khóa để đối phó với coronavirus. Mục đích là để giữ cho nhân viên có thể tiếp tục làm việc trong thời gian khó khăn này. Các tổ chức tôn giáo đã được mời và được phép tham gia, vì họ tuyển dụng một con số đông đảo người dân trên cả nước. Tại Tổng Giáo Phận New York, nếu anh chị em cộng chung lại số lượng nhân viên toàn thời gian tại các giáo xứ, trường học, cơ quan và các cơ quan hành chính cấp giáo phận của chúng ta, thì anh chị em sẽ có con số 6000 nhân viên toàn thời gian và 4000 nhân viên bán thời gian. Nếu không có sự trợ giúp từ PPP, nhiều người tuyển dụng lao động của chúng ta sẽ không có lựa chọn nào khác hơn là sa thải nhân viên của họ, và như thế làm giảm khả năng của Giáo Hội trong việc hỗ trợ những người gặp khó khăn, cũng như buộc những nhân viên của chúng ta phải lâm cảnh thất nghiệp. Điều đó có nghĩa là thư ký giáo xứ của anh chị em, hoặc các giáo viên trong trường Công Giáo của con em anh chị em, chẳng hạn, có thể dễ dàng mất việc. Vì vậy, số tiền đã không phải là dành cho “tổng giáo phận” nhưng dành cho người lao động của chúng ta. Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đã đưa ra một tuyên bố vào hôm thứ Sáu liên quan đến nhiều chủ đề về vấn đề này. Anh chị em có thể đọc tuyên bố của các ngài ở đây.
Một vấn đề thứ hai là bài báo cố gắng tạo ra mối liên hệ nào đó giữa cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục đã ám ảnh Giáo hội và việc trợ giúp trong Chương trình Bảo Vệ Tiền Lương. Anh chị em đừng để bị ngộ nhận, số tiền mà Tổng giáo phận New York nhận được chỉ được sử dụng cho các mục đích được nêu trong luật này, đó là tiếp tục trả cho các nhân viên tiền lương và các trợ cấp của họ. Không một xu nào trong số tiền đó được sử dụng dưới bất kỳ hình thức nào để giải quyết các vụ kiện hoặc trả tiền cho những nạn nhân bị lạm dụng. Chúng tôi không giữ lại đồng nào trong số tiền này. Tất cả được trao cho các công nhân viên của chúng ta và chính phủ luôn kiểm tra cẩn thận.
Thứ ba, bài viết của AP chỉ tập trung vào Giáo Hội Công Giáo, như thể người Công Giáo là thực thể duy nhất tham gia trong Chương trình Bảo Vệ Tiền Lương. Trong thực tế, các tổ chức tôn giáo đại diện cho tất cả các tín ngưỡng đã tham gia chương trình này, như đã được dự trù. Trên toàn quốc, Cơ Quan Quản Lý Doanh Nghiệp Nhỏ đã phê duyệt hơn 88, 000 khoản xin vay của các tổ chức tôn giáo, hỗ trợ việc trả lương cho hơn một triệu công ăn việc làm. Như thế thì tại sao bài báo đó chỉ tập trung vào Giáo Hội Công Giáo, trừ khi các phóng viên này có một số động cơ nào đó đối với Giáo hội, mà chúng ta nghi ngờ là như thế?
Hãy để tôi nói rõ ràng: Tôi là một người ủng hộ nhiệt thành một nền báo chí tự do, và trong khi thực thi sứ vụ Tổng Giám mục New York tôi luôn dành ưu tiên trong việc cởi mở và sẵn sàng đối với những người nam nữ của các phương tiện truyền thông muốn được phỏng vấn tôi. Đông đảo phóng viên mà tôi đã tiếp xúc là những người tận tâm với nghề nghiệp của họ, tìm cách để có được những câu chuyện đúng, và nói chung, việc tường thuật về Giáo hội của họ khá công bằng - nghiêm túc và trung thực khi báo cáo về những sai lầm của tôi, cũng như sẵn lòng báo cáo về các phát triển tích cực
Tuy nhiên, câu chuyện này của AP thì không được như thế. Nó đã thêu dệt nên một câu chuyện không có thực, và tìm cách tấn Công Giáo hội.
Xin tha thứ cho tôi vì đã “trút bầu tâm sự” như thế này. Tôi thường nghe lời khuyên của những người bảo tôi là không nên đánh nhau trên báo chí với một người có thể mua hàng thùng mực máy in - hoặc, theo cách nói ngày nay, là người có bandwith vô giới hạn. Nhưng câu chuyện này quá sai trái, và gieo rắc các ấn tượng tai hại đến mức tôi cảm thấy điều quan trọng là phải thẳng thắn tường trình với anh chị em.
Xin gởi đến anh chị em những lời cầu nguyện tốt đẹp nhất của tôi.
Thân ái trong Chúa Kitô,
+ Đức Hồng Y Timothy Michael Dolan Tổng giám mục New York
Những vụ tấn công mới vào Công giáo Hoa Kỳ: tượng Chúa Giê-su bị chặt đầu, tượng Đức Mẹ bị sơn đỏ
7/19/2020 11:09:10 AM
Một loạt các vụ tấn công gần đây vào các tòa nhà và tài sản của Giáo hội tiếp tục vào tối thứ Ba 14/07, khi một tượng Chúa Kitô bị lật đổ và chặt đầu tại một giáo xứ ở Miami, bang Florida, và một bức tượng Đức Mẹ bị phủ sơn đỏ ở Colorado Springs, bang Colorado.
 Đức cha Thomas Wenski, tổng giám mục Miami, nói với cảnh sát rằng việc mạo phạm tượng Chúa Kitô nên bị xem là một hành động thù hận đối với Giáo hội và đức tin.
Tội thù ghét Giáo hội và đức tin Công giáo
Bà Mary Ross Agosta, giám đốc truyền thông của tổng giáo phận Miami, nói với hãng tin CNA: “Đêm thứ Ba, ngày 14/07 hoặc sáng sớm thứ Tư, ngày 15/07, tượng Chúa Giêsu Kitô Mục tử nhân lành đã bị mạo phạm; đầu của Chúa đã bị lìa khỏi thân.” “Tượng được đặt bên ngoài nhà thờ Chúa Chiên lành thuộc tổng giáo phận Miami, ở Tây Nam Hạt Miami-Dade. Cảnh sát đã được thông báo và Đức tổng giám mục Thomas Wenski đang yêu cầu cuộc điều tra này được xem là một tội thù ghét.”
Vào sáng thứ Tư, bức tượng được phát hiện bị lật đổ và mất đầu. Cha Edvaldo DaSilva, quản nhiệm giáo xứ Chúa Chiên lành, nói với truyền thông địa phương rằng cha không tin rằng sự việc có thể là tình cờ, vì các ốc vít ở bệ tượng đã bị tháo bỏ. Cha cầu nguyện cho bất cứ ai mạo phạm tượng Chúa, xin Chúa tha thứ và cho họ được ơn hoán cải.
Tượng Đức Mẹ bị sơn đỏ
Cũng vào cùng đêm thứ Ba 14/07, một bức tượng Đức Mẹ tại nhà thờ chính tòa Đức Maria ở Colorado Springs đã bị sơn đỏ bởi một hành động phá hoại. Kẻ hay những kẻ phá hoại đã tô sơn lên Thánh giá của tượng, và dường như cũng sơn các móng chân của tượng.
Cha David Price, cha sở giáo xứ, nói với truyền thông địa phương rằng thiệt hại trông giống như nét vẽ graffiti hơn bất cứ thứ gì khác, và nói thêm rằng kẻ phá hoại đã viết từ “redrum" trên bệ của tượng. Những từ này viết ngược lại là “murder”, kẻ giết người, đề cập đến cuốn truyện “The Shining” của Stephen King vào năm 1977.
Tượng Đức Mẹ ở Tenessee bị chặt đầu
Vào cuối tuần 11 và 12/07, tại Tennessee, một tượng Đức Mẹ bị chặt đầu vào sáng sớm thứ Bảy 11/07, trong khi tại Boston, một tượng Đức Mẹ bị đốt cháy và tại Brooklyn, một tượng bị viết sơn đen lên thân tượng.
Trong khi một số cuộc tấn công vào các bức tượng, đáng chú ý nhất là ở California, đã được thực hiện công khai bởi các nhóm lớn có liên kết chính trị rõ ràng, thì thủ phạm của các vụ khác, bao gồm cả những người xúc phạm các tượng Đức Mẹ và Chúa Kitô, vẫn chưa được xác định. (CNA 16/07/2020)
Hồng Thủy (VaticanNews Tiếng Việt 18.07.2020)
John Lewis, anh hùng phong trào dân quyền và Dân biểu Hoa Kỳ, qua đời ở tuổi 80
July 18, 2020 VOA –
John Lewis, một anh hùng của phong trào dân quyền Mỹ những năm 1960, người đã chịu đựng những vụ đánh đập dã man của cảnh sát da trắng và đám đông và đóng một vai trò to lớn trong nền chính trị Mỹ suốt 60 năm qua, đã qua đời tối ngày thứ Sáu ở tuổi 80.

Là con trai của một tá điền ở bang Alabama, ông Lewis đắc cử vào Hạ viện Hoa Kỳ năm 1986 với tư cách dân biểu Đảng Dân chủ từ bang Georgia.
Là con trai của một tá điền ở TB Alabama, ông Lewis đắc cử vào Hạ viện Hoa Kỳ năm 1986 với tư cách dân biểu Đảng Dân chủ từ TB Georgia., ra đi sau khi một trận chiến với bệnh ung thư tuyến tụy.
Là người được dìu dắt bởi chính biểu tượng dân quyền Martin Luther King Jr., ông Lewis lãnh đạo các cuộc biểu tình ngồi lì để đòi cho người da đen ngồi chung trong quầy ăn trưa chỉ dành cho người da trắng, là một trong những thành viên nguyên thủy của những người “Freedom Riders” đòi cho người da đen ngồi chung hàng ghế với người da trắng trên xe buýt, và bị nứt xương sọ trong khi biểu tình đòi quyền đầu phiếu của người da đen vì bị đánh đập dã man bởi một cảnh sát da trắng ở TB Alabama trong sự kiện được gọi là “Chủ nhật Đẫm máu.”
Ông Lewis chỉ mới 18 tuổi khi lần đầu tiên gặp ông King và tiếp tục đóng một vai trò trọng yếu trong phong trào dân quyền đấu tranh vì sự bình đẳng cho người da đen ở một nước Mỹ giằng xé với thiên kiến chủng tộc và kỳ thị chủng tộc, đặc biệt là ở miền Nam.
Trong tư cách dân biểu, ông Lewis từng chỉ trích Tổng thống Donald Trump bắt đầu ngay cả trước khi ông Trump nhậm chức. Ông Lewis vào tháng 1 năm 2017 nói ông không xem ông Trump là một tổng thống “chính danh” vì sự can thiệp của Nga trong cuộc bầu cử năm 2016 để nghiêng lợi thế về cho ông. Ông Trump đã thu hút những lời chỉ trích ngay cả từ những người Cộng hòa đồng đảng của ông khi ông gọi ông Lewis là “toàn nói” và “không làm gì.”
[img]https://pbs.twimg.com/media/EdLhJ-DWoAAe0yv?format=jpg&name=small[/img]
Ông Lewis đã hiện diện tại nhiều thời khắc trọng đại của phong trào dân quyền, và là người diễn thuyết trẻ nhất vào tháng 3 năm 1963 tại Washington, nơi ông Martin Luther King đọc bài diễn văn “I Have Dream Dream” (Tôi có một ước mơ) nêu lên hi vọng về một xứ sở mà người da đen “sẽ không bị phán xét bởi màu da mà bởi nhân cách của chính họ.”
Ông Lewis, diễn giả cuối cùng còn sống tham dự bài diễn thuyết đó, đã duy trì cuộc đấu tranh vì dân quyền cho đến cuối đời. Ông xuất hiện trước công chúng lần cuối vào tháng 6, khi các cuộc biểu tình đòi công lý chủng tộc quét khắp nước Mỹ và thế giới.
Ông chống gậy bước đi cùng Thị trưởng Thủ đô Washington Muriel Bowser trên một con đường bên cạnh Bạch Ốc mà bà Bowser vừa đổi tên thành Quảng trường Black Lives Matter.
Từ lâu trước Cuộc Tuần hành Washington năm 1963, ông Lewis đã giúp thành lập Ủy ban Điều phối Bất Bạo động Học sinh Sinh viên (SNCC) mà sau đó trở thành một nhóm dân quyền nổi tiếng. Ông làm chủ tịch trong ba năm.
Ông đã chứng tỏ ông sẵn sàng mạo hiểm mạng sống của mình vì lý tưởng dân quyền và phản kháng phi bạo lực và tổ chức các vụ biểu tình ngồi lì đầu tiên tại các quầy ăn trưa cho người da đen tại các quán ăn chỉ dành cho người da trắng.
[img]https://pbs.twimg.com/media/EdLhzUHU4AA-_Cf?format=jpg&name=small[/img]
Vào năm 1960, tại một quán ăn chỉ dành cho người da trắng ở thành phố Nashville, tiểu bang Tennessee, một người hầu bàn da trắng đổ bột cọ rửa xuống lưng ông và nước lên thức ăn của ông. Ông bị đánh đập bởi những người da trắng ở tiểu bang South Carolina và Alabama trong các chuyến xe buýt vận động chống phân cách chủng tộc vào năm 1961 được gọi là Freedom Rides. Và ông bị chấn thương thêm nữa trong “Chủ nhật Đẫm máu” năm 1965 tại thành phố Selma.
“Tôi nghĩ tôi suýt chết mấy lần,” ông nói trong một cuộc phỏng vấn vào năm 2004, nhắc đến Selma và một đám đông năm 1961 đánh đập ông tại một trạm xe buýt ở thành phố Montgomery, Alabama. “Tôi nghĩ tôi đã nhìn thấy cái chết, nhưng không gì có thể làm tôi hoài nghi về triết lý phi bạo lực.”
Barack Obama, tổng thống Mỹ da đen đầu tiên, đã trao cho ông Lewis Huân chương Tự do của Tổng thống, danh hiệu dân sự cao nhất của Mỹ, vào năm 2011.

“Nhiều thế hệ từ giờ trở đi, khi cha mẹ dạy cho con cái về ý nghĩa của lòng can đảm, câu chuyện của John Lewis sẽ hiện ra trong tâm trí – một người Mỹ biết rằng sự thay đổi không thể chờ đợi một người khác hoặc một thời điểm khác. Cuộc đời của ông ấy là một bài học về sự khẩn cấp ráo riết của hiện tại,” ông Obama nói trong một buổi lễ tại Bạch Ốc.
Ông Lewis sinh ngày 21 tháng 2 năm 1940 tại Troy, Alabama, lúc mà người da đen đối mặt với sự kì thị trong tất cả các cơ sở công cộng và trên thực tế bị ngăn chặn đi bỏ phiếu ở miền Nam của Mỹ – nơi mà chế độ nô lệ người da đen chỉ kết thúc sau cuộc Nội chiến 1861-1865 – vì các đạo luật “Jim Crow” khét tiếng.
(VOA)
Trung Quốc: Bên trong toàn trị, bên ngoài đế quốc
Đăng ngày: 18/07/2020 - 10:33

Ảnh tư liệu: Người biểu tình Philippines dẫm đạp lên cờ Trung Quốc nhân một cuộc biểu tình chống Trung Quốc tại Manila (Philippines) ngày 21/06/2019. AP - Aaron Favila
Anh Vũ 10 phút
Chủ đề chính của các tuần báo Pháp ra tuần này khá đa dạng. Le Point quan tâm đến mối lo ngại Thổ Nhĩ Kỳ, đang lấn lướt các đồng minh phương Tây để nổi lên như là một cường quốc khu vực. Bên cạnh đó các báo tuần không bỏ qua những sự kiện nóng liên quan đến Trung Quốc. Bài xã luận của Le Point mang tiêu đề "Trung Quốc: Luật của kẻ mạnh".
Mở đầu bài xã luận, Le Point ghi nhận là trận đại dịch Covid-19 đã làm phát lộ và đẩy nhanh tốc độ chuyển biến của thế kỷ 21, làm tan rã trật tự thế giới hình thành sau 1945 và góp phần xóa đi vai trò thủ lĩnh thế giới của Hoa Kỳ, đang tê liệt bởi trận « Trân Châu Cảng y tế », kinh tế suy thoái tồi tệ nhất kể từ 1930 cùng làn sóng thất nghiệp 48 triệu người ».
Thế nhưng trong cơn hoạn nạn đó của thế giới, Trung Quốc lại nổi lên. Theo Le Point, « trận đại dịch mà trong đó Trung Quốc phải có trách nhiệm đã tạo cho ông Tập Cận Bình cơ hội kiểm soát hệ tư tưởng và giám sát người dân ». Bên trong thì củng cố chế độ toàn trị, bên ngoài Bắc Kinh thực thi chiến lược ngoại giao « cực kỳ hung hăng » theo kiểu đế quốc.
Bài báo liệt kê ra một danh sách dài các hành động ỷ vào sức mạnh và vi phạm luật pháp quốc tế của Trung Quốc : Ban hành luật an ninh quốc gia ở Hồng Kông, kéo theo một loạt vụ bắt bớ trấn áp; đòi Google, Facebook, WhatsApp hay Twitter phải cung cấp cho an ninh Trung Quốc thông tin người sử dụng ; gia tăng áp lực chính trị và quân sự với Đài Loan ; gây đụng độ với Ấn Độ ở vùng biên giới đang có tranh chấp Ladakh ; trả đũa Úc bằng cấm vận thương mại vì nước này yêu cầu mở điều tra độc lập về nguồn gốc đại dịch virus corona ; đẩy mạnh nắm quyền kiểm soát các công ty chiến lược và hạ tầng cơ sở trọng yếu bằng cách gán nợ cho các nước, trong đó có cả châu Âu; tấn công mạng, thao túng dư luận ở các nền dân chủ giữa đại dịch….
Tham vọng toàn cầu của Tập Cận Bình
Le Point nhận định : Hành vi như vậy nằm trong chiến lược dài hạn nhằm chiếm lĩnh vai trò thủ lĩnh thế giới như Tập Cận Bình đề ra từ đại hội đảng thứ 19.
« Tham vọng của Bắc Kinh được cổ vũ thêm bởi sự tan rã vai trò thủ lĩnh của Hoa Kỳ, chính quyền Trump là một quà đẹp chưa từng thấy cho chế độ toàn trị Trung Quốc ». Tuy nhiên theo Le Point, chính sách của Tập Cận Bình đang vấp phải ngày càng nhiều sự phản kháng. Từ châu Âu cho đến châu Á, các quốc gia ý thức được mối đe dọa, đã hành động để ngăn chặn chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc.
Le Point chỉ thẳng : « Trung Quốc giờ đây là mối đe dọa hàng đầu về tự do và hòa bình thế giới » với tham vọng toàn cầu của Tập Cận Bình là « một thế giới, một chế độ ».
Bài xã luận kêu gọi, « đã đến lúc các nền dân chủ phải chống lại Trung Quốc như đã từng làm với Liên Xô sau Thế Chiến Thứ 2. Tờ báo đưa ra chiến lược ngăn chặn Trung Quốc theo 5 trục chính :
« Hình thành một liên minh các nền dân chủ bao gồm các quốc gia tự do châu Á, trong đó châu Âu phải tham gia. Phá thế bao vây nhờ chính sách cùng phát triển với các quốc gia đang trỗi dậy và đầu tư mạnh trở lại cho các định chế đa phương. Tái lập lại cân bằng kinh tế bằng việc quy hồi các hoạt động sản xuất chiến lược. Cần có qua có lại trong trao đổi buôn bán. Khôi phục mạnh hơn cạnh tranh công nghệ. Đấu tranh tư tưởng bằng việc khẳng định lại các giá trị phổ quát về tự do chính trị và nhân quyền ».
Hồng Kông: Hậu quả thấy ngay của luật an ninh quốc gia
Liên quan đến chính sách dùng vũ lực của Trung Quốc, tuần san L’Express trở lại Hồng Kông những ngày từ khi có luật an ninh quốc gia với bài phóng sự « Nỗi sợ hãi trong thành phố ».
Bài báo ghi nhận những ngày đầu tháng 7 này, nhịp sống ở Hồng Kông đang trở lại như thường thấy. Thế nhưng « dưới bóng các tòa nhà chọc trời, lan tỏa một nỗi sợ hãi, bất an nặng nề » từ khi Bắc Kinh áp đặt bộ luật an ninh quốc gia tại vùng đất bán tự trị này. Chỉ chưa đầy 24 giờ sau khi luật có hiệu lực, cảnh sát đã tiến hành hàng loạt vụ bắt bớ. Một người đàn ông 24 tuổi đã bị buộc tội « lật đổ » chính quyền vì đã trương lá cờ « Hồng Kông tự do » và đang chờ tháng 10 ra tòa lĩnh án.
Một phụ nữ Hồng Kông 39 tuổi nói với phóng viên của L’Express : « Chúng tôi tôi đã bước vào thời kỳ mới, dưới sự kiểm soát hoàn toàn của đảng Cộng sản Trung Quốc ». Bà cho biết không còn dám đăng gì trên facebook nữa vì sợ bị bắt. Bà đang mong bán được cửa hàng của mình để đi định cư ở Canada.
Bài phóng sự cho biết, các hoạt động kiểm duyệt sách báo, tư tưởng của người dân diễn ra từng ngày từ các hiệu sách đến trường học. Hơn một chục các tổ chức chính trị, công đoàn dân chủ đã phải tự giải thể vì ý thức được mối đe dọa của luật mới, một số nhà hoạt động đã chọn đường ra nước ngoài tị nạn. Họ biết mình sẽ là mục tiêu của luật an ninh quốc gia và sẽ có nhiều nguy cơ ngồi tù suốt đời. Các tiếng nói phản kháng biến dần.
Với bộ luật mới, cảnh sát Hồng Kông được trang bị quyền lực chưa từng có. Họ có thể khám xét không cần lệnh, lục lọi điện thoại, máy tính và cấm các nội dung trên internet. Nhiều công ty được chỉ thị phải yêu cầu các nhân viên chấm dứt bình luận chính trị trên mạng. TikTok, một ứng ụng chia sẻ vidéo, do một công ty Trung Quốc nắm giữ đã thông báo rút khỏi Hồng Kông để tránh rủi ro phạm vào bộ luật của Bắc Kinh. Google, Facebook, Twitter không biết có thể ở lại Hồng Kông hay không khi không chấp nhận cung cấp thông tin người sử dụng theo yêu cầu của chính quyền.
Giám sát dân bằng công nghệ di truyền
Vẫn liên quan đến chuyện giám sát dân chúng nhưng ở Hoa Lục. Courrier International đăng lại phóng sự điều tra của nhật báo Mỹ New York Times: « Tại Trung Quốc, sắp tới 700 triệu người được lập phiếu ADN ».
Bài phóng sự cho biết, Bắc Kinh đang triển khai lập danh mục ADN của nam giới nước này nhằm mục đích có thể giúp tìm nhưng đối tượng tội phạm. Cảnh sát Trung Quốc hiện đã bắt đầu lấy mẫu máu của tất cả đàn ông trong cả nước, từ vị thanh niên cũng như trưởng thành, để lập hệ thống dữ liệu ADN. Chương trình được thực hiện với sự trợ giúp của phương tiện kỹ thuật mua của công ty Mỹ Thermo Fisher.
Theo Courrier Internationnal, « với dự án này, Trung Quốc đã vượt qua một bước lớn trong việc sử dụng dữ liệu di truyền để kiểm soát dân chúng ». Dù chính quyền nhấn mạnh việc chia sẻ dữ liệu ADN này dựa trên cơ sở tình nguyện. Nhưng một số quan chức tại Trung Quốc và hiệp hội bảo vệ nhân quyền ở nước ngoài đã cảnh báo việc làm trên quy mô toàn quốc như vậy là hành động xâm phạm đời tư và tạo điều kiện cho chính quyền trừng phạt người thân của những nhà ly khai hay hoạt động tranh đấu.
Đây là công cụ bổ sung thêm vào mạng lưới giám sát tinh vi đang ngày càng được công an triển khai rộng rãi trong cả nước, như hệ thống nhận diện và trí thông minh nhân tạo. Công an Trung Quốc khẳng định cần có cơ sở dữ liệu đó để ngăn chặn các đối tượng phạm pháp. Việc chỉ lập phiếu ADN của năm giới được giải thích rất đơn giản : Đàn ông có xu hướng phạm tội nhiều hơn phụ nữ, theo các thống kê.
Thổ Nhĩ Kỳ : Đế chế Ottoman trở lại
Trở lại Le Point với hồ sơ chính mối đe dọa bành trướng của Thổ Nhĩ Kỳ. Tuần báo chạy tựa lớn trang nhất : « Erdogan, chiến tranh đang ở cửa nhà chúng ta »
Gần đây báo chí đã tốn không ít giấy mực cho Thổ Nhĩ Kỳ của tổng thống Erdogan đầy tham vọng. Le Point dành nhiều bài viết trong số ra tuần này để cho thấy một nước Thổ Nhĩ Kỹ của tổng thống Tayipp Erdogan đang muốn nổi lên thành cường quốc trong khu vực, trở lại thời hoàng kim của đế chế Ottoman.
Hàng loạt các hành động của chính quyền Erdogan tại Syria, Libya, Síp, Địa Trung Hải hay thái độ ngang ngược với các đồng minh Nato, bắt bí các nước Châu Âu … cho thấy Thổ Nhĩ Kỳ đang ngày càng tỏ rõ tham vọng bành trướng từ quân sự, chính trị đến văn hóa lịch sử. Hành động gần đây nhất của Ankara là việc quyết định chuyển thành nhà thờ Hồi Giáo công trình thánh đường cổ của đạo Thiên Chúa Hagia Sophia (Sainte-Sophie), được xây dựng từ thế kỷ thứ IV, từ 1934 là bảo tàng quốc gia. Quyết định này của tổng thống Erdogan nhằm xóa đi những dấu vết lịch sử bất lợi cho việc khôi phục hình ảnh một Thổ Nhĩ Kỳ hùng mạnh của thời đế chế Ottoman.
Giờ đây Thổ Nhĩ Kỳ không sợ phải đối đầu với các nước lớn,dù là phương Tây hay Nga, để giành ảnh hưởng tại Libya, trên Địa Trung Hải, như vụ đòi quyền khai thác các mỏ khí đốt mới phát hiện ngoài khơi đảo Síp. Để làm được điều đó Ankara sẵn sàng triển khai sức mạnh quân sự.
Thổ Nhĩ Kỳ không ngần ngại đối đầu về chính trị cũng như quân sự với Pháp, một khi lợi ích của họ trong khu vực Trung Cận Đông bị cản trở, như sự cố trên Địa Trung Hải hồi tháng trước với tàu chiến Pháp Courbet, được tờ báo trích dẫn. Ankara cũng sẵn sàng lấy làn sóng người nhập cư để gây sức ép, bắt bí Liên Hiệp Châu Âu.
Ẩm thực : Trở lại vạch xuất phát
Về hồ sơ chính, « Ẩm thực, điểm xuất phát mới », Courrier International đề cập đến thực trạng lĩnh vực nhà hàng ăn uống tiêu điều vì khủng hoảng dịch Covid 19 nay đang cố gượng dậy.
Các nhà hàng ăn uống là một trong những nạn nhân đầu tiên của đại dịch virus corona. Ở Pháp cũng như các nơi khác, từ châu Mỹ sang châu Âu, hàng ngàn nhà hàng từ nổi tiếng cho đến bình dân trong các góc phố đã phải đóng cửa trong đợt phong tỏa giãn cách xã hội. Giờ đây khi đã được giải tỏa, rất đông các nhà hàng không thể mở cửa lại, số khác mở cửa trở lại nhưng phải thay đổi hoàn toàn cách thức kinh doanh. Mô hình quán ăn đang thay đổi căn bản, có thể nói là gần như trở lại từ đầu.
Hồ sơ của Courrier International về chủ đề ẩm thực phác họa những nét chính của bức tranh ngành ẩm thực trên toàn thế giới sau phong tỏa vì khủng hoảng dịch Covid-19 cùng những nỗ lực sáng tạo cứu ngành kinh tế có doanh thu tới 900 tỷ đô la mỗi năm và sử dụng 15 triệu nhân công này của thế giới.
Edited by user Sunday, July 19, 2020 1:26:40 AM(UTC)
| Reason: Not specified
|